群芳过后西湖好 1, 狼藉残红 2,飞絮蒙蒙 3,垂柳阑干尽日风.
笙歌散尽游人去,始觉春空,垂下帘栊 4,双燕归来细雨中.
(欧阳修)
THÁI TANG TỬ
Quần phương quá hậu Tây hồ hảo 1, lang tịch tàn hồng 2, phi nhứ mông mông 3, thuỳ liễu lan can tận nhật phong.
Sinh ca tán tận du nhân khứ, thuỷ giác xuân không, thuỳ há liêm lung 4, song yến quy lai tế vũ trung.
(Âu Dương Tu)
Chú thích
1- TÂY HỒ 西湖: phía tây bắc huyện Khúc Dương 曲阳 tỉnh An Huy 安徽 hiện nay, là nơi hợp lưu của sông Dĩnh 颍với các chi lưu khác.
2- LANG TỊCH 狼藉: tạp loạn, lộn xộn.
TÀN HỒNG 残红: hoa rụng
3- MÔNG MÔNG 蒙蒙: hình dung mưa bay lất phất. Ở đây chỉ hoa liễu bay.
4- LIÊM LUNG 帘栊: màn cửa sổ. LUNG 栊: tức song cửa sổ.
Dịch ý
Phong cảnh Dĩnh Châu 颍州 ở Tây hồ, dù khi trăm hoa đã héo rụng, vẫn cứ đẹp tươi. Trên mặt đất những cánh hoa rụng đầy, bông liễu bay lất phất trong không trung. Phía ngoài lan can bên hồ, hàng ngàn hàng vạn cành liễu non suốt ngày đong đưa trong cơn gió nhẹ.
Tiếng sáo tiếng ca đã theo du khách đi xa, lúc này ta mới cảm giác được nỗi tịch mịch, tĩnh lặng lúc cuối xuân. Trời đã xế chiều, đương lúc sắp buông rèm, ta chợt thấy một đôi chim én đang bay về trong cơn mưa xuân.
Điểm bình
Bài từ này là bài thứ 4 trong chùm từ “Thái tang tử” gồm 10 bài của Âu Dương Tu, viết về cảnh sắc cuối xuân nơi Tây hồ ở Dĩnh Châu. Hoa rụng xuân đi, con người luôn cảm thấy luyến tiếc, ưu buồn, nhưng Âu Dương Tu lại có tâm tình khác hẳn, đã viết ra bài từ ca ngợi này. “Thuỷ giác xuân không” là lời đốn ngộ, vừa biểu đạt ý khi “sinh ca tán tận” dường như có cảm giác trống trải của sự mất mát, lại hàm ý thể nghiệm việc nhận thức tỉnh táo sau khi trải qua cảnh phồn hoa huyên náo và việc quay về với tĩnh lặng. Chữ “hảo” ở câu đầu là nền tảng của sự cảm thụ tâm lí, chỉ có lí giải tâm lí phức tạp vi diệu này của từ nhân, mới có thể cùng tác giả cảm nhận được sự tồn tại của chữ “hảo” khi “lang tịch tàn hồng”.
CHÚ THÍCH CỦA NGƯỜI DỊCH
ÂU DƯƠNG TU 欧阳修 (1007 – 1072): tự Vĩnh Thúc 永叔, hiệu Tuý Ông 醉翁, về già có hiệu là Lục Nhất Cư Sĩ 六一居士, người Lư Lăng 庐陵(nay là Cát An 吉安Giang Tây 江西). Đậu Tiến sĩ năm Thiên Thánh 天圣 thứ 8 đời Tống Nhân Tông (năm 1030). Từng nhậm chức gián quan, sau làm đến các chức Hàn lâm học sĩ, Xu mật phó sứ, Tham tri chính sự. Lúc mất có tên thuỵ là Văn Trung 文中. Ông là lãnh tụ của phong trào cách tân thơ văn thời Bắc Tống, và là một trong Đường Tống bát đại gia, thơ và từ của ông đều đạt thành tựu cao. Ông từng cùng với Tống Kì 宋祁 tu sửa bộ Tân Đường thư 新唐书, riêng mình ông soạn bộ Tân ngũ đại sử 新五代史. Tập từ của ông có Lục Nhất từ 六一词, Cận thể nhạc phủ 近体乐府, Tuý Ông ngâm thú ngoại biên 醉翁吟趣外编, tổng cộng khoảng hơn 200 bài.
(Nguồn Tống từ tam bách thủ 宋词三百首, Thượng Cương Thôn Dân 上彊村民 biên soạn, Lưu Văn Lan 刘文兰 chú dịch. Sùng văn thư cục, 2003, trang 24)
Huỳnh Chương Hưng
Quy Nhơn 26/02/2013
Nguyên tác Trung văn
THÁI TANG TỬ
采桑子
Trong quyển
TỐNG TỪ TAM BÁCH THỦ TỪ ĐIỂN
宋词三百首辞典
Biên soạn: Lâm Thân Thanh 林申清
Hán ngữ đại từ điển xuất bản xã, 1999.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét