鹧鸪天
化度寺 1 作
池上红衣 2 伴倚阑, 栖鸦常带夕阳还. 殷云 3 度雨疏桐落, 明月生凉玉扇闲.
乡梦窄, 水天宽. 小窗愁黛淡秋山. 吴鸿 4 好为传归信, 杨柳阊门 5 屋数间.
(吴文英)
GIÁ CÔ THIÊN
Hoá Độ tự 1 tác
Trì thượng hồng y 2 bạn ỷ lan, thê nha thường đới tịch dương hoàn. Ân vân 3 độ vũ sơ đồng lạc, minh nguyệt sinh lương ngọc phiến nhàn.
Hương mộng trách, thuỷ thiên khoan. Tiểu song sầu đại đạm thu sơn. Ngô hồng 4 hảo vị truyền quy tín, dương liễu xương môn 5 ốc sổ gian.
(Ngô Văn Anh)
Chú thích
1- HOÁ ĐỘ TỰ 化度寺: tên một ngôi chùa. Theo Hàng Châu phủ chí 杭州府志, chùa Hoá Độ tại huyện Nhân Hoà 仁和, vốn tên là Thuỷ Vân tự 水云寺, năm thứ 2 niên hiệu Trị Bình 治平 đời Tống Anh Tông (năm 1065) đổi là Hoá Độ tự.
2- HỒNG Y 红衣: chỉ hoa sen.
3- ÂN VÂN 殷云: mây dày
4- NGÔ HỒNG 吴鸿: một loài nhạn lớn từ vùng Tô Châu 苏州 bay đến.
5- XƯƠNG MÔN 阊门: cửa tây ở Tô Châu. Ở đây chỉ nơi ở của người thiếp của tác giả.
Dịch nghĩa
GIÁ CÔ THIÊN
Viết tại chùa Hoá Độ
Bên ao, một mình đứng tựa lan can, không có ai chỉ có mấy đoá sen hồng làm bạn. Trời đã hoàng hôn, bầy chim quạ mang theo ánh nắng chiều bay về đậu bên chùa. Mây đen giăng kín mang đến một trận mưa mau, lá ngô đồng tiêu sơ rơi rụng. Sau cơn mưa, bầu trời đêm trong vắt, vầng trăng sáng treo cao, khí trời mát mẻ, chiếc quạt ngọc cùng làm bạn đã để qua một bên.
Hồn mộng về lại quê nhà sao mà ngắn ngủi, còn nước biếc trời xanh sao lại mênh mông. Bên song đưa mắt nhìn ra xa, núi mùa thu mờ mờ giống đôi mày vẽ nhạt dường như cũng mang niềm u oán. Đàn chim nhạn từ đất Ngô cố hương bay đến, nhờ chim thay ta chuyển lời tâm nguyện muốn được về lại quê nhà, bên
ngoài Xương môn phía tây thành Tô Châu, trong đám dương liễu thấp thoáng mấy gian nhà kia, đó chính là nơi mà hồn mộng ta luôn vương vấn.
Dịch theo điệu từ
GIÁ CÔ THIÊN
Viết tại chùa Hoá Độ
Đứng tựa lan can bạn sen hồng,
Chim chiều mang nắng lượn từng không.
Mây dày mưa gấp, ngô đồng rụng,
Trắng sáng trời trong, quạt chẳng dùng.
Mơ quê ngắn, nước mênh mông.
Núi thu thấp thoáng hiện bên song.
Chim Ngô nhờ cậy truyền tin tức,
Dưới liễu nhà ta bóng trập trùng.
NGÔ VĂN ANH 吴文英 (1212? – 1272?): tự Quân Đặc 君特, hiệu Mộng Song 梦窗, về già có hiệu là Giác Ông 觉翁, vốn họ Ông 翁, sau do làm con nuôi kế tự cho nhà họ Ngô 吴 nên mang họ Ngô, người Tứ Minh 四明 (nay là Ninh Ba 宁波 Triết Giang 浙江). Ngô Văn Anh ngoài lúc hơn 30 tuổi làm quan Thương Đài mạc liêu 仓台幕僚 ra, cả đời ông chưa từng làm quan, cơ bản sống một cuộc đời thanh bạch. Về từ ông là một đại gia cuối thời Nam Tống, đại biểu chủ yếu của phái từ phong nhã, cùng với Khương Quỳ 姜夔 được gọi là “Khương Ngô” 姜吴. Từ của ông điển lệ tinh xảo, nhiều đẽo gọt, âm luật hài hoà. Trong Tứ khố toàn thư đề yếu 四库全书提要 có ghi:
Từ gia chi hữu Văn Anh, như thi gia chi hữu Lí Thương Ẩn
词家之有文英, 如诗家之有李商隐
(Từ gia thì có Văn Anh, cũng như thi gia thì có Lí Thương Ẩn)
Trứ tác có Mộng Song giáp ất bính đinh cảo 梦窗甲乙丙丁稿. Từ khoảng 350 bài.
Huỳnh Chương Hưng
Quy Nhơn 31/8/2012
Dịch từ nguyên tác Trung văn
GIÁ CÔ THIÊN
鹧鸪天
Trong quyển
TỐNG TỪ TAM BÁCH THỦ
宋词三百首
Biên soạn: Thượng Cương Thôn Dân 上彊村民
Chú dịch: Lưu Văn Lan 刘文兰
Sùng văn thư cục, 2003.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét