THƯỜNG THỨC VĂN HOÁ CỔ ĐẠI
ĐỊA LÍ
(tiếp theo)
Tỉnh vốn là danh xưng quan thự. Đời Nguyên lấy Trung thư tỉnh 中書省làm chính phủ trung ương, trên lộ đặt Hành trung thư tỉnh 行中書省 (gần giống với Trung thư tỉnh biện sự xứ 中書省辦事處 hoặc Trung thư tỉnh hành thự 中書省行署) gọi tắt là Hành tỉnh 行省. Về sau Hành tỉnh chính thức trở thành danh xưng khu vực hành chính, gọi tắt là “tỉnh”.
Phủ 府
Theo chế độ thời Đường, châu lớn gọi là phủ, nhân vì một số châu này đặt ra Đô đốc phủ hoặc Đô hộ phủ. Đời Đường phủ lệ thuộc đạo, đời Tống phủ lệ thuộc lộ, đời Nguyên có phủ thuộc lộ, có phủ trực thuộc trung ương. Đời Minh và đời Thanh đổi châu thành phủ.
Quân 軍
Quân là khu vực hành chính đời Tống, một quân ngang với một châu hoặc phủ, trực thuộc lộ. Bình định quân 平定軍 đời Tống tức Bình Định châu 平定州đời Thanh, Nam An quân 南安軍 đời Tống tức Nam An phủ 南安府đời Thanh, có thể thấy quân, châu và phủ gần như nhau.
Huyện 縣
Huyện là khu vực hành chính cơ sở. Huyện đời Tần Hán thuộc quận (đời Hán dưới quốc cũng có huyện). Huyện của đời sau thuộc châu hoặc phủ.
Chúng ta đọc cổ văn cần chú ý tình huống đồng danh nhưng dị địa. Ví dụ Sơn Đông 山東, thời Chiến Quốc gọi lục quốc là Sơn Đông, đây là do bởi Tần đóng đô ở Quan Trung 關中, lục quốc tại phía đông Hàm Cốc quan 函谷關 núi Hào 崤. Cho nên trong Chiến Quốc sách – Triệu sách 戰國策 - 趙策 có ghi rằng:
Lục quốc tùng thân dĩ bấn Tần, Tần tất bất cảm xuất binh ư Hàm Cốc quan dĩ hại Sơn Đông hĩ.
六國從親以擯秦, 秦必不感出兵於函谷關以害山東矣.
(Sáu nước kết thân để đánh Tần, Tần tất không dám xuất binh ra Hàm Cốc quan để hại Sơn Đông)
Trong Quá Tần luận 過秦論 Giả Nghị 賈誼 cũng viết:
Sơn Đông hào tuấn, toại tịnh khởi nhi vong Tần tộc hĩ
山東豪俊, 遂并起而亡秦族矣
(Bậc hào tuấn ở Sơn Đông cùng nổi dậy mà diệt tộc nhà Tần)
Nhưng trong Hán thư – Nho lâm truyện 漢書 - 儒林傳 lại nói, Phục Sinh 伏生được 25 thiên sách Thượng thư 尚書,
Dĩ giáo vu Tề Lỗ chi gian, Tề học giả do thử phả năng ngôn “Thượng thư”, Sơn Đông đại sư vô bất thiệp “Thượng thư” dĩ giáo.
以教于齊魯之間, 齊學者由此頗能言 “尚書”,山東大師亡不涉 “尚書” 以教
(Để dạy ở vùng Tề Lỗ, học giả đất Tề do đó mà giỏi giảng “Thượng thư”, các đại sư vùng Sơn Đông không ai là không dùng “Thượng thư” để dạy)
Sơn Đông ở đây lại chỉ vùng Tề Lỗ (1). Và như Giang Nam 江南, trong Sử kí – Hoá thực liệt truyện 史記 - 貨殖列傳 ghi rằng:
Giang Nam Dự Chương Trường Sa
江南豫章長沙
Chỉ vùng Hồ Quảng Giang Tây ngày nay. Còn Giang Nam ngày nay, trong Sử kí lại gọi là Giang Đông. Trong Sử kí – Hạng Vũ bản kỉ 史記 - 項羽本紀 có ghi:
Túng Giang Đông phụ huynh lân nhi vương ngã, ngã hà diện mục kiến chi.
縱江東父兄憐而王我, 我何面目見之
(Ví dù phụ huynh vùng Giang Đông thương ta tôn ta làm vương, ta còn mặt mũi nào mà trông thấy họ)
Còn như địa danh cụ thể, tại mỗi thời đại khác nhau chỉ địa điểm khác nhau là điều thường thấy, ví dụ:
Kế 薊, thời Nam Bắc triều trở về trước chỉ vùng Bắc Kinh ngày nay; Kế châu 薊州, từ đời Đường trở về sau chỉ huyện Kế tỉnh Hà Bắc ngày nay.
Quế Lâm 桂林, đời Tần chỉ phía nam huyện Quý 貴 tỉnh Quảng Tây ngày nay, thời Tam Quốc chỉ thành phố Ngô châu 梧州 ngày nay; thời Tây Tấn chỉ phía đông thành phố Liễu châu 柳州 ngày nay. Quế châu 桂州thời Nam Bắc triều cùng thời Đường và thời Ngũ đại, phủ Quế Lâm thời Minh Thanh đều chỉ thành phố Quế Lâm ngày nay.
Chú của nguyên tác
(1)- Sơn Đông 山東, Sơn Tây 山西thời cổ, có lúc theo Hoa sơn 華山 mà nói, có lúc theo Thái Hàng sơn 太行山 mà nói.
Huỳnh Chương Hưng
Quy Nhơn 14/9/2014
Nguyên tác Trung văn trong
CỔ ĐẠI HÁN NGỮ
古代漢語
(tập 3)
Chủ biên: Vương Lực 王力
Trung Hoa thư cục, 1998.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét