About

Blog Archive

Lưu trữ Blog

Được tạo bởi Blogger.

Blogroll

 

Dịch thuật: Tính danh (tiếp theo)

TÍNH DANH
(tiếp theo)

          Về tính thị, có mấy điểm cần phải nêu ra:
          Thứ 1: thời thượng cổ khi xưng hô phụ nữ có thể thêm chữ “thị” sau tính. Ví dụ Vũ Khương 武姜được xưng là Khương thị 姜氏; Kính Doanh 敬嬴 được xưng là Doanh thị 嬴氏; Li Cơ  驪姬 được xưng là Cơ thị 姬氏v.v…
          Thứ 2: trong một số tình huống, tộc và thị là từ đồng nghĩa. Trong Xuân Thu Thành Công thập tứ niên 春秋成公十四年 có câu:
Thúc Tôn Kiều Như như Tề nghịch nữ
叔孫僑如如齊逆女
(Thúc Tôn Kiều Như sang nước Tề đón dâu)
          Ở Tả truyện 左傳 nói:
Xưng tộc, tôn quân mệnh
稱族, 尊君命
(Xưng tộc là tôn mệnh vua)
          Ở Xuân Thu 春秋, đoạn dưới có nói:
Kiều Như dĩ phu nhân phụ Khương chí tự Tề
僑如以夫人婦姜氏至自齊
(Kiều Như đưa phu nhân Khương thị từ Tề về)
          Ở Tả truyện 左傳 nói:
Xả tộc, tôn phu nhân dã
舍族, 尊夫人也
(Bỏ tộc là để tôn trọng phu nhân)
          Gọi là tộc ở đây, chỉ việc xưng Thúc Tôn 叔孫, bỏ tộc không xưng Thúc Tôn, có thể thấy “tộc” chính là “thị”. Trong Chiến Quốc sách – Tần sách 戰國策 - 秦策 chép rằng:
          Tích giả Tăng tử xứ Phí, Phí nhân hữu dữ Tăng Tử đồng danh tộc giả nhi sát nhân.
昔者曾子處費, 費人有与曾子同名族者而殺人
          (Xưa Tăng Tử ở đất Phí, có người ở đất phí cùng tên họ với Tăng Tử giết người)
          Tộc ở đây có ý nghĩa là thị.
          Thứ 3: sau thời Chiến Quốc, người ta lấy thị làm tính, tính và thị dần hợp làm một, đời Hán thông gọi là tính (1), đồng thời từ thiên tử cho đến thứ nhân đều có thể có tính.
          Thứ 4: đời sau có những phức tính không phải của Hán tộc. Ví dụ như: Trưởng Tôn 長孫, Vạn Sĩ 万俟, Vũ Văn 宇文, Mộ Dung 慕容, Hạ Lan 賀蘭, Độc Cô 獨孤, Thác Bạt 拓跋, Uất Trì 尉遲, Hô Diên呼延, Ngốc Phát 禿髮, Khất Phục 乞伏, Bộc Cố 僕固, Ca Thư 哥舒 v.v…
          Người xưa có danh có tự. Thuyết cũ cho rằng, đứa bé sau khi sinh được 3 tháng sẽ do phụ thân đặt tên. Con trai đến 20 tuổi thành nhân khi cử hành “quán lễ” 冠禮 (lễ buộc tóc đội mũ) sẽ đặt tự; con gái đến 15 tuổi có thể lấy chống sẽ cử hành “kê lễ” 笄禮 (lễ buộc tóc cài trâm) đặt tự. Danh và tự có liên hệ về ý nghĩa. Ví dụ: Khuất Nguyên 屈原, danh là Bình , tự là Nguyên . Trong Nhĩ nhã – Thích địa 爾雅 - 釋地 có ghi:
Quảng bình viết nguyên
廣平曰元
(Đất rộng mà bằng phẳng gọi là nguyên)
          Nhan Hồi 顏回 tự là Tử Uyên 子淵. Trong Thuyết văn 說文 có ghi:
Uyên, hồi thuỷ dã
淵回水也
(Uyên là nước xoay tròn)
          Có lúc danh và tự là từ đồng nghĩa. Ví dụ: Tể Dư 宰予tự là Tử Ngã 子我; Phàn Tu 樊須 tự là Tử Trì 子遲 (Tu và trì đều có nghĩa là đợi). Có lúc danh và tự là từ phản nghĩa. Ví dụ: Tăng Điểm 曾點 tự là Tích . Trong Thuyết văn 說文 có ghi:
Điểm, tiểu hắc dã
, 小黑也
(Điểm là chấm đen nhỏ)
Dẫn đến nghĩa là “ô” (dơ).  Còn “tích” có nghĩa là sắc người trắng. Đôi khi chúng ta không nhìn thấy mối liên hệ giữa danh và tự, điều này chủ yếu là do bởi ngữ nghĩa biến đổi.
          Đời Chu, trước tên tự của đàn ông quý tộc thêm Bá, Trọng, Thúc, Quý để biểu thị thứ bậc, sau tự thêm chữ hoặc để biểu thị giới tính, như vậy cấu thành cách gọi đầy đủ tự của đàn ông. Ví dụ:
          Cầm Phủ , Trọng Sơn Phủ , Trọng Ni Phủ , Thúc Hưng Phủ .
           Có lúc tỉnh lược chữ (). Ví dụ:
          Cầm , Trọng Ni , Thúc Hướng , Tử Lộ
          Có lúc bỏ thứ bậc. Ví dụ:
          Cầm Phủ , Ni Phủ , Phủ
          Có lúc lấy thứ bậc làm tự. Ví dụ:
          Quản Di Ngô 管夷吾 tự là Trọng , Phạm Thư 范雎 tự là Thúc , Lỗ công tử Hữu tự là Quý .
          Nhưng tình huống này tương đối ít thấy.
         Đời Chu, trước tên tự của phụ nữ quý tộc thêm tính, trước tính thêm Mạnh (Bá), Trọng, Thúc, Quý biểu thị thứ bậc, sau tự thêm “mẫu” hoặc “nữ” để biểu thị giới tính, như vậy cấu thành cách gọi đầy đủ tự của phụ nữ. Ví dụ:
Mạnh Nhâm Xa Mẫu 孟妊, Trọng CậtNghĩa Mẫu 中姞 v.v…
          Có lúc tỉnh lược chữ , ví dụ như Quý Cơ Nha 季姬
Có lúc tỉnh lược thứ bậc, ví dụ Nguyên Mẫu
          Có lúc đơn xưng “….. Mẫu” hoặc “….. Nữ”, ví dụ Thọ Mẫu , Bạch Nữ
          Nhưng thường thấy nhất là trước tính là thứ bậc, ví dụ như Mạnh Khương , Thúc, Quý Mị v.v…
          Thời Xuân Thu phương thức phổ thông nhất mà đàn ông đặt tự là trước tự thêm chữ “tử” , đây là do bởi “tử” là từ tôn xưng đàn ông. Ví dụ:
          Tử Sản 子產 (Công Tôn Kiều 公孫僑),  Tử Phạm 子犯(Hồ Yển 狐偃), Tử Tư 子胥 (Ngũ Viên 伍員), Tử Uyên 子淵 (Nhan Hồi 顏回), Tử Hữu 子有 (Nhiễm Cầu 冉求), Tử Hạ 子夏 (Bốc Thương 卜商), Tử Ngã 子我 (Tể Dư 宰予), Tử Cống 子貢 (Đoan Mộc Tứ 端木賜)
          Chữ “tử” này thường tỉnh lược, xưng trực tiếp là Nhan Hồi, Nhiễm Hữu, Tể Ngã v.v…   (còn tiếp)

Chú của nguyên tác
1- Cố Viêm Vũ 顧炎武trong Nhật tri lục 日知錄 quyển 23, Tiền Đại Hân 錢大昕 trong Thập Giá Trai dưỡng tân lục 十駕齋佯養新錄 quyển 12, điều Tính thị 姓氏 cho rằng:
Cái Tam đại dĩ tiền, tính dữ thi phân, Hán Nguỵ dĩ hậu, tính dữ thị hợp
蓋三代以前, 姓與氏分; 漢魏以後, 姓與氏合
(Từ thời Tam đại trở về trước, tính và thị phân biệt, từ thời Hán Nguỵ trở về sau, tính và thị hợp lại.)

                                                         Huỳnh Chương Hưng
                                                         Quy Nhơn 15/3/2015

Nguyên tác Trung văn trong
CỔ ĐẠI HÁN NGỮ
古代漢語
(tập 3)
Chủ biên: Vương Lực 王力
Trung Hoa thư cục, 1998.

0 nhận xét:

Đăng nhận xét