人为财死, 鸟为食亡
郁离子谓姬献曰: “吾尝游汝, 泗 (1) 之间, 见丛祠焉,其中为天仙, 其左右为鬼伯 (2). 天仙之祠, 香烛之外无物,而鬼伯之祠, 击钟, 烹羶 (3), 明膏火, 穷昼夜. 今子之庭, 无雨, 旸 (4), 寒, 暑皆如市, 鹅, 羊, 鸭, 鸡之声哑嚄嘈囋 (5), 不得闻人语, 吾隐子之不能为天仙而为鬼伯也.”明年而败于匏瓜 (6) 之墟, 姬献死焉.
(郁離子 - 远利)
NHÂN VỊ TÀI TỬ, ĐIỂU VỊ THỰC VONG
Úc Li Tử vị Cơ Hiến viết: “Ngô thường du Nhữ, Tứ (1) chi gian, kiến tùng từ yên, kì trung vi thiên tiên, kì tả hữu vi quỷ bá (2). Thiên tiên chi từ, hương chúc chi ngoại vô vật, nhi quỷ bá chi từ, kích chung, phanh thiên (3), minh cao hoả, cùng trú dạ. Kim tử chi đình, vô vũ, dương (4), hàn, thử giai như thị, nga, dương, áp, kê chi thanh á, hoạch, tào, toản (5), bất đắc văn nhân ngữ, ngô ẩn tử chi bất năng vi thiên tiên nhi vi quỷ bá dã.” Minh niên nhi bại vu bào qua (6) chi khư, Cơ Hiến tử yên.
(Úc Li Tử - Viễn lợi)
NGƯỜI VÌ THAM TIỀN MÀ CHẾT,
CHIM VÌ THAM CÁI ĂN MÀ MẤT MẠNG
Úc Li Tử nói với Cơ Hiến rằng:
“Tôi từng đi chơi ở sông Nhữ sông Tứ, thấy miếu đường ở những nơi đó nhiều như rừng, miếu ở giữa thờ thiên tiên, miếu ở hai bên trái phải thờ quỷ. Trong miếu thờ thiên tiên, trừ nhang đèn ra, không có thứ gì khác, còn trong miếu thờ quỷ nào là đánh chuông, nào là mổ dê, đốt đuốc suốt cả ngày đêm. Nay nơi sân của ông, bất luận là ngày mưa hay ngày nắng, trời lạnh hay trời nóng đều giống như cái chợ. Tiếng ngỗng tiếng dê tiếng vịt tiếng gà ồn ào huyên náo, không thể nghe được tiếng người, tôi lo ông không thể thành thiên tiên mà thành quỷ mất.”
Năm sau, Cơ Hiến chết ở chợ bán hồ lô.
CHÚ GIẢI
1- Nhữ 汝, Tứ 泗: tên sông.
2- Quỷ bá 鬼伯: thời cổ gọi quỷ là “quỷ bá”
3- Thiên羶: chữ dị thể của chữ 膻.
4- Dương旸: mặt trời mọc ra; trời nắng.
5- Á 哑, hoạch 嚄, tào 嘈, toản 囋: những từ tượng thanh.
6- Bào 匏: cũng gọi là “biên bạc” 扁薄, “dạ khai hoa” 夜开花, “hồ lô” 葫芦.
CHÚ CỦA NGƯỜI DỊCH
ÚC LI TỬ 郁離子: là tác phẩm của Lưu Cơ 刘基 đời Minh, gồm 18 thiên (chương), với 195 tắc, đa phần là ngụ ngôn (181 tắc). Nhìn từ nội dung, trong Úc Li Tử không ít ngụ ngôn ẩn dụ về tình hình chính trị và xã hội cuối đời Nguyên, nói lên những điều không tốt của thế sự lúc bấy giờ, phúng thích nhà cầm quyền xa lánh người hiền tin dùng bọn gian nịnh, bổ dụng bà con thân thích. Còn có không ít những tắc ngụ ngôn nhắm vào sự lạc hậu ngu muội tương đối điển hình, phẩm hạnh thấp kém và hiện tượng nhân luân không hợp của xã hội cuối đời Nguyên. Đồng thời với việc châm biếm khuyên răn, tác phẩm còn vạch rõ thái độ nhân sinh chính xác, cho người đọc sự gợi mở và giáo dục sâu sắc. Có tắc báo cho người đời không nên mất cảnh giác với kẻ địch, có tắc cảnh báo không nên mê tín, cũng có tắc khuyên răn chớ tự cao tự đại, xử lí chính vụ phải nắm được mấu chốt của vấn đề. Toàn sách đề tài phong phú, ngôn ngữ sắc bén, ngụ ý sâu xa. So với những trứ thuật khác của Lưu Cơ, Úc Li Tử càng phản ánh nhiều triết học quan, chính trị quan, kinh tế quan, đạo đức quan, nhân tài quan của ông cùng với thành tựu văn học. Nó cũng phản ánh chủ trương an bang định quốc của ông.
Tắc này ở thiên Viễn lợi 远利
LƯU CƠ 刘基 (1311 – 1375): tự Bá Ôn 伯温, người làng Nam Điền 南田 huyện Thanh Điền 青田 (nay là huyện Văn Thành 文成tỉnh Triết Giang 浙江). Ông là nhà mưu lược quân sự, nhà chính trị và là nhà thơ cuối đời Nguyên đầu đời Minh, thông kinh sử, hiểu thiên văn, tinh binh pháp. Lưu Cơ phò tá Chu Nguyên Chương 朱元璋 hoàn thành nghiệp đế, khai sáng triều Minh, đồng thời ra sức gìn giữ sự ổn định quốc gian nhân đó mà nổi danh khắp thiên hạ. Lưu Cơ được người đời sau xem như Chư Cát lượng诸葛亮.
Khi mất ông có tên thuỵ là Văn Thành 文成
Huỳnh Chương Hưng
Quy Nhơn 22/4/2015
Nguồn
ÚC LI TỬ
郁离子
Tác giả: Lưu Cơ 刘基
Dịch chú: Mộc Tử 木子
Thượng Hải – Học Lâm xuất bản xã, 2002.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét