胆大妄为, 自取其祸
安期生 (1) 得道于之罘之山 (2), 持赤刀以役 (3) 虎, 左右指使进退, 如役小儿. 东海 (4) 黄公见而慕之, 谓其神灵在刀焉, 窃而佩之, 行遇虎于路, 出刀以格 (5) 之, 弗胜, 为虎所食. 郁离子曰: “今之若是者众矣. 蔡人渔于淮, 得符文之玉 (6), 自以为天授之命, 乃往入大泽, 集众以图大事, 事不成而赤其族 (7), 亦此类也.”
(郁離子 - 慎微)
ĐẢM ĐẠI VỌNG VI, TỰ THỦ KÌ HOẠ
An Kì Sinh (1) đắc đạo vu Chi Phù chi sơn (2), trì xích đao dĩ dịch (3) hổ, tả hữu chỉ sử tiến thoái, như dịch tiểu nhi. Đông Hải (4) Hoàng Công kiến nhi mộ chi, vị kì thần linh tại đao yên, thiết nhi bội chi, hành ngộ hổ vu lộ, xuất đao dĩ cách (5)chi, phất thắng, vi hổ sở thực. Úc Li Tử viết: “Kim chi nhược thị giả chúng hĩ. Thái nhân ngư vu Hoài, đắc phù văn chi ngọc (6), tự dĩ vi thiên thụ chi mệnh, nãi vãng nhập đại trạch, tụ chúng dĩ đồ đại sự, sự bất thành nhi xích kì tộc (7), diệc thử loại dã.”
(Úc Li Tử - Thận vi)
TO GAN LÀM BẬY, TỰ CHUỐC LẤY HOẠ
An Kì Sinh học được đạo thuật ở núi Chi Phù, cầm cây đao sáng loáng sai khiến hổ, chỉ bên trái chỉ bên phải để hổ tiến hay lui giống như sai khiến đứa bé. Hoàng Công ở Đông Hải nhìn thấy rất thích, cho rằng có thần linh ở trên đao, thế là lén lấy đao mang vào người. Một ngày nọ, Hoàng Công gặp hổ trên đường, bèn rút đao đấu với hổ, đấu không thắng lại bị hổ ăn thịt. Úc Li Tử bảo rằng: “Hiện có nhiều người giống như thế. Tại đất Thái có một người đánh cá trên sông Hoài, bắt được một miếng ngọc có khắc chữ “phù mệnh”, cho rằng đó là trời trao cho mình sứ mệnh. Ông ta liền vào đầm lớn, tụ tập mọi người mưu tính đại sự, kết quả là đại sự không thành, ngược lại bị hoạ diệt tộc. Ông đó thuộc loại người như Hoàng Công.
Chú giải
1- An Kì Sinh 安其生: người Lang Nha 琅琊 nước Tần, bán thuốc trên biển, hiệu là Bão Phác Tử 抱朴子. Ông là vị tiên nhân trong truyền thuyết.
2- Chi Phù chi sơn 之罘之山: tên núi, tức “Chi Phù sơn” 芝罘山, nay là phía đông bắc huyện Phúc Sơn 福山, bán đảo Sơn Đông 山东.
3- Dịch 役: sai khiến
4- Đông hải 东海: nhà Tần lập quận Đông Hải, trị sở tại Đàm 郯 (nay là phía bắc Đàm thành, Sơn Đông)
5- Cách 格: tức cách đấu 格斗, bác đấu 博斗, đánh nhau
6- Phù văn chi ngọc 符文之玉: phù văn 符文 tức văn tự phù mệnh.
Phù mệnh 符命: người xưa cho đó là điềm cát tường, chứng tỏ thiên mệnh quân chủ, gọi đó là “phù mệnh”
7- Xích kì tộc 赤其族: tru diệt cả tộc.
CHÚ CỦA NGƯỜI DỊCH
ÚC LI TỬ 郁離子: là tác phẩm của Lưu Cơ 刘基đời Minh, gồm 18 thiên (chương), với 195 tắc, đa phần là ngụ ngôn (181 tắc). Nhìn từ nội dung, trong Úc Li Tửkhông ít ngụ ngôn ẩn dụ về tình hình chính trị và xã hội cuối đời Nguyên, nói lên những điều không tốt của thế sự lúc bấy giờ, phúng thích nhà cầm quyền xa lánh người hiền tin dùng bọn gian nịnh, bổ dụng bà con thân thích. Còn có không ít những tắc ngụ ngôn nhắm vào sự lạc hậu ngu muội tương đối điển hình, phẩm hạnh thấp kém và hiện tượng nhân luân không hợp của xã hội cuối đời Nguyên. Đồng thời với việc châm biếm khuyên răn, tác phẩm còn vạch rõ thái độ nhân sinh chính xác, cho người đọc sự gợi mở và giáo dục sâu sắc. Có tắc báo cho người đời không nên mất cảnh giác với kẻ địch, có tắc cảnh báo không nên mê tín, cũng có tắc khuyên răn chớ tự cao tự đại, xử lí chính vụ phải nắm được mấu chốt của vấn đề. Toàn sách đề tài phong phú, ngôn ngữ sắc bén, ngụ ý sâu xa. So với những trứ thuật khác của Lưu Cơ, Úc Li Tử càng phản ánh nhiều triết học quan, chính trị quan, kinh tế quan, đạo đức quan, nhân tài quan của ông cùng với thành tựu văn học. Nó cũng phản ánh chủ trương an bang định quốc của ông.
Tắc này ở thiên Thận vi 慎微
LƯU CƠ 刘基 (1311 – 1375): tự Bá Ôn 伯温, người làng Nam Điền 南田huyện Thanh Điền 青田 (nay là huyện Văn Thành 文成tỉnh Triết Giang 浙江). Ông là nhà mưu lược quân sự, nhà chính trị và là nhà thơ cuối đời Nguyên đầu đời Minh, thông kinh sử, hiểu thiên văn, tinh binh pháp. Lưu Cơ phò tá Chu Nguyên Chương 朱元璋 hoàn thành nghiệp đế, khai sáng triều Minh, đồng thời ra sức gìn giữ sự ổn định quốc gian nhân đó mà nổi danh khắp thiên hạ. Lưu Cơ được người đời sau xem như Chư Cát lượng 诸葛亮.
Khi mất ông có tên thuỵ là Văn Thành 文成
Huỳnh Chương Hưng
Quy Nhơn 19/3/2016
Nguồn
ÚC LI TỬ
郁离子
Tác giả: Lưu Cơ 刘基
Dịch chú: Mộc Tử 木子
Thượng Hải – Học Lâm xuất bản xã, 2002.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét