NGUỒN GỐC CỦA KỈ VÀ ÁN
Kỉ 几là một loại gia cụ mà người thời cổ dùng để tựa khi ngồi; Án 案 cũng là một loại gia cụ mà người thời cổ dùng để dâng thức ăn, đọc sách hoặc viết chữ. Mọi người thường nói chung kỉ án là bởi vì về hình thức của kỉ và án rất khó vạch ra giới hạn khác nhau của chúng. Theo tập tục truyền thống, thông thường gọi loại tương đối lớn là “án”, gọi loại tương đối nhỏ là “kỉ”. Về tên gọi “kỉ”, “án”, cũng không phải đã có ngay từ đầu. Trước khi có tên gọi “kỉ” và “án”, hình thức của chúng sớm đã có. Lúc bấy giờ gọi chung là “trở” 俎. Về sau, theo sự thay đổi các triều đại, tên gọi của chúng cũng không ngừng thay đổi. Muốn làm rõ vấn đề này, phải bắt đầu từ Hữu Ngu thị有虞氏.
Trở, thời Hữu Ngu thị 有虞氏gọi là “khoản trở” 梡俎; thời Hạ Hậu thị 夏后氏 gọi là “quyết trở” 嶡俎; đời Thương 商 gọi là “củ” 椇; đời Chu 周 gọi là “phòng trở” 房俎. Khoản trở, quyết trở cũng có thể gọi là “khoản” 梡 và “quyết” 嶡. Thời bấy giờ trở đa phần được dùng trong tế tự, sinh hoạt ngày thường rất ít dùng. Hậu kì đời Chu có tên gọi “án”, là do bởi việc sử dụng trở ngày càng nhiều, nhưng cũng vẫn là dùng trong tế tự thần linh và tổ tiên. Để có sự khu biệt, người ta mới gọi loại dùng trong tế tự là “trở”, còn loại dùng trong sinh hoạt ngày thường là “án”.
Bắt đầu từ Hữu Ngu thị, hình thức của trở cũng theo sự tiến bộ của văn hoá vật chất của nhân loại mà không ngừng cải tiến và phát triển. Lúc đầu chỉ là 4 thanh gỗ thẳng đứng đỡ tấm ván. Trong Lễ kí – Minh đường vị 礼记 - 明堂位 ghi rằng:
Trở, Hữu Ngu thị dĩ khoản
俎, 有虞氏以梡
(Trở, thời Hữu Ngu thị gọi là “khoản”)
Họ Trịnh 郑 đã chú rằng:
Khoản, đoạn mộc vi tứ túc nhi dĩ
梡, 断木为四足而已
(Khoản là loại dụng cụ lấy gỗ làm 4 chân)
Họ Khổng 孔 cũng đã sớ rằng:
Ngu trở danh khoản, khoản hình tứ túc như án, dĩ Hữu Ngu thị thượng chất vị hữu dư sức, cố tri đản tứ túc như án nhĩ.
虞俎名梡, 梡形四足如案, 以有虞氏尚质未有余饰, 故知但四足如案耳.
(Trở thời Ngu tên gọi là khoản, hình dạng của khoản có 4 chân giống cái án, thời họ Hữu Ngu hãy còn chất phác chưa có trang sức thêm vào, cho nên chỉ có 4 chân giống cái án) (Tam lễ đồ 三礼图, quyển 13)
Quyết trở ở đời Hạ đã tiến thêm một bước. Chân trước và sau ở 2 phía gắn thêm một thanh ngang, vừa tăng tính vững chắc lại có thêm tác dụng trang sức cho đẹp. Trong Minh đường vị 明堂位 có ghi:
Trở, Hạ Hậu thị dĩ quyết
俎, 夏后氏以嶡
(Trở thời Hạ Hậu thị gọi là “quyết”)
Họ Trịnh 郑 cũng đã chú rằng:
Khoản thuỷ hữu tứ túc, quyết vi chi cự
梡始有四足, 嶡为之距
(Khoản lúc đầu có 4 chân, quyết là gắn thêm cự)
Lời sớ nói rằng, thời Hữu Ngu thị hãy còn chất phác, khoản chỉ có 4 chân. Thời Hạ trang sức thêm, quyết tuy giống cái khoản nhưng có một thanh ngang ở chân (Tam lễ đồ 三礼图, quyển 13)
Trở đời Thương gọi là “củ” 椇. Chữ 椇 đọc như chữ 矩 (củ). Hình dáng có khác so với trước. Trở đời Ân đem chân ở 2 phía làm thành hình cong. “Cụ” vốn là tên gọi một loại cây, nhân vì cành của nó đa phần là cong cho nên lấy hình dáng của chân giống cây nên gọi nó là “củ”. Trong Lễ kí 礼记 ghi rằng:
Thương trở viết củ, độc viết củ. Khúc nạo kì túc. Chỉ cụ chi thụ kì chi đa khúc, Thương trở túc tự chi.
商俎曰椇, 读曰矩. 曲挠其足. 枳椇之树其枝多曲, 商俎足似之.
(Trở đời Thương gọi là củ. Đọc như chữ 矩. Chân cong. Cây chỉ cây củ cành phần nhiều là cong, trở đời Thương có chân giống như thế)
(Tam tài đồ hội 三才图会, Khí dụng 器用, quyển 2)
Đời Chu gọi là “phòng trở” 房俎, hình dáng có khác so với đời trước. Ở phòng trở, thang ngang ở giữa 2 chân được dời đến phần cuối, như vậy 4 chân của trở không trực tiếp chạm đất mà là ở trên thanh ngang, hình dạng giống thanh chắn ở chân án sau này.
Từ thời Hữu Ngu thị cho đến thời Chu, hình chế trở của 4 đời tuy có sự biến hoá và phát triển, nhưng thước tấc dài ngắn và nước sơn không biến đổi mấy. Trong Tam lễ đồ 三礼图 ghi rằng:
Trở trường nhị xích tứ thốn, quảng xích nhị thốn, cao nhất xích. Tất lưỡng đoan xích, trung ương hắc. Nhiên tắc tứ đại chi trở, kì gian tuy hữu tiểu dị cao hạ, trường đoản xích thốn tất sức tịnh đồng.
俎长二尺四寸, 广尺二寸, 高一尺. 漆两端赤, 中央黑. 然则四代之俎, 其间虽有小异高下, 长短尺寸漆饰并同.
(Trở dài 2 xích 4 thốn, rộng 1 xích 2 thốn, cao 1 xích. Hai đầu sơn đỏ, ở giữa sơn đen. Trở của 4 đời tuy cao thấp có khác nhau, nhưng dài ngắn và màu sơn thì giống nhau)
Khoảng thời Chiến quốc xuất hiện tên gọi “án” “kỉ”. Hình dáng so với khoản, quyết, phòng trở của các đời trước có sự biến đổi. Cao Thừa Tuyển 高承选 trong Sự vật kỉ nguyên 事物纪原 có nói:
Hữu Ngu tam đại hữu trở nhi vô án, Chiến quốc thuỷ hữu kì xưng. Yên thái tử Đan dữ Kinh Kha đẳng án nhi thực thị dã, Án cái trở chi di dã.
有虞三代有俎而无案, 战国始有其称. 燕太子丹与荆轲等案而食是也, 案盖俎之遗也.
(Thời Hữu Ngu tam đại chỉ có trở không có án, thời Chiến quốc mới bắt đầu có tên gọi “án”. Thái tử Đan nước Yên với Kinh Kha cùng ngang án mà ăn là như thế. Án là đời sau của trở)
Từ thời Hán trở về sau, án được sử dụng ngày càng rộng rãi, chủng loại cũng không ngừng tăng lên
Thời Chiến quốc còn xuất hiện một loại kỉ cong chuyên dùng để tựa, khi trải chiếu ngồi trên đất, đặt nó ở dưới nách, bên trái bên phải đều được.
Về sự phát triển của kỉ xin được nói sơ qua. Từ thời Hán trở về trước, việc sử dụng kỉ rất thường thấy. Cách trí kính nguyên 格致镜原 dẫn lời trong Bại sử loại biên 稗史类编:
Hán Lí Vưu kỉ minh tự viết: Hoàng Đế Hiên Viên nhân trí khủng sự hữu khuyết, tác dư kỉ chi pháp. Tắc kỉ sáng thuỷ tự Hoàng Đế dã (1).
汉李尤几铭叙曰: 黄帝轩辕仁智恐事有阙, 作舆几之法. 则几创始自黄帝也.
(Trong “Kỉ minh tự” của Lí Vưu đời Hán viết rằng: Hoàng Đế Hiên Viên nhân trí, sợ sự việc có khiếm khuyết, đã làm ra xe và kỉ. Như vậy kỉ là do Hoàng Đế sáng tạo ra)
Đây đơn thuần chỉ là do người đời sau ghi lại. Những ghi chép về kỉ sớm nhất thấy ở Xuân Thu Tả truyện 春秋左传:
Chư hầu chi sư, cửu vu Bức Dương. Tuân Yển Sĩ Cái, thỉnh vu Tuân Anh viết: Thuỷ lạo tương giáng, cụ bất năng quy, thỉnh ban sư, Trí Bá nộ (Trí Bá, Tuân Anh dã), đầu chi dĩ kỉ, xuất vu kì gian (2) .
诸侯之师, 久于偪阳, 荀偃士匃, 请于荀罃曰: 水潦将降, 惧不能归, 请班师, 智伯怒 (智伯, 荀罃也), 投之以几, 出于其间
(Quân chư hầu ở lâu tại Bức Dương, Tuân Yển và Sĩ Cái xin nói với Tuân Anh rằng: Trời sắp mưa lớn, sợ không thể lui được, xin lui trước. Trí Bá giận (Trí Bá tức Tuân Anh) cầm chiếc kỉ ném ra, lọt giữa hai người)
Trong Trang Tử 庄子:
Nam Quách Tử Kì, ấn kỉ nhi toạ. Ngưỡng thiên nhi hư, tháp yên tự táng kì
ngẫu. Nhan Thành Tử Du, lập thị hồ tiền, viết, hà cư hồ, hình cố khả sử như cảo mộc, tâm cố khả sử như tử hôi hồ, kim chi ấn kỉ giả, phi tích chi ấn kỉ dã (3).
南郭子綦, 隐几而坐. 仰天而嘘, 嗒焉似丧其偶. 颜成子游, 立侍乎前, 曰, 何居乎, 形固可使如槁木, 心固可使如死灰乎, 今之隐几者, 非昔之隐几也.
(Nam Quách Tử Kì ngồi tựa kỉ, ngước mặt lên trời thở dài, như người mất hồn. Nhan Thành Tử Du đứng hầu bên cạnh, hỏi:
- Sao thầy như vậy? Hình hài như cây khô, tinh thần như tro tàn. Người tựa kỉ lúc này không phải là người tựa kỉ lúc nãy sao?)
Và trong Chiến quốc sách 战国策:
Quách Ngỗi vị Yên Chiêu Vương, ấn kỉ cứ trượng, miện thị tương sử, tắc tư dịch chi nhân chí (4) .
郭隗谓燕昭王, 隐几据杖, 眄视相使, 则厮役之人至.
(Quách Ngỗi nói với Yên Chiêu Vương rằng: tựa kỉ cầm trượng, liếc mắt ra hiệu sai người làm việc, thì người kẻ tôi tớ sẽ đến với mình)
Hình dáng của kỉ và án không khác nhau mấy, chỉ là kỉ hơi dài hơn. Nhìn từ ngoại hình, mặt kỉ tương đối hẹp, là loại gia cụ chuyên dùng để tựa khi ngồi. Chẳng qua lúc bấy giờ, trừ những bậc trưởng giả hoặc tôn quý ra, người bình thường không có tư cách để dùng loại gia cụ này. Trong Tam tài đồ hội 三才图会 nói rằng:
Kỉ, sở dĩ an thân dã, cố gia chư lão giả, nhi thiếu giả bất cập yên.
几, 所以安身也, 故加诸老者, 而少者不及焉
(Kỉ là loại dùng để giúp thân được an nhàn, cho nên dành cho người già, người trẻ dùng không được)
Trong Khí vật tùng đàm 器物丛谈 có ghi:
Kỉ, án thuộc, trường ngũ xích, cao xích nhị thốn, quảng nhất xích, lưỡng đoan xích, trung ương hắc.
几, 案属, 长五尺, 高尺二寸, 广一尺, 两端赤, 中央黑.
(Kỉ thuộc loại án, dài 5 xích, cao 1 xích 2 thốn, rộng 1 xích, hai đầu màu đỏ, ở giữa màu đen)
Cổ giả toạ tất thiết kỉ, sở dĩ y bằng chi cụ. Nhiên phi tôn giả bất chi thiết, sở dĩ thị ưu sủng dã. Kì lai cổ hĩ.
古者坐必设几, 所以依凭之具. 然非尊者不之设, 所以示优宠也. 其古来矣.
(Thời cổ, mỗi khi ngồi đều để chiếc kỉ bên cạnh, là loại dùng để tựa. Nhưng nếu không phải là bậc tôn quý thì không để, đó là thể hiện sự ưu đãi. Xưa nay đều như thế)
Từ những điều trên mà suy đoán, kỉ và án đều thuộc loại gia cụ, chỉ có điều khác nhau cách dùng mà thôi. Xét nguồn gốc, không nghi ngờ gì chúng xuất phát từ chiếc trở thời Hữu Ngu Tam đại.
CHÚ THÍCH CỦA NGƯỜI DỊCH
Tích Đế Hiên Viên, nhân trí cung thứ. Khủng sự chi hữu khuyết, tác ỷ kỉ chi pháp.
昔帝轩辕, 仁智恭恕. 恐事之有阙, 作倚几之法.
(Xưa Hiên Viên, nhân trí cung kính khoan thứ. Sợ sự việc có khiếm khuyết, đã làm ra chiếc kỉ để tựa)
(2)- Đoạn này trong Tả truyện – Tương Công thập niên 左传 - 襄公十年.
(3)- Đoạn này trong Trang Tử - Tề vật luận 庄子 - 齐物论.
(4)- Câu này trong Chiến quốc sách – Yên sách 战国策 - 燕策.
Huỳnh Chương Hưng
Quy Nhơn 9/9/2012
Dịch từ nguyên tác Trung văn
KỈ ÁN ĐÍCH KHỞI NGUYÊN
几案的起源
Trong quyển
TRUNG QUỐC CỔ ĐẠI GIA CỤ
中国古代家具
Tác giả: Hồ Đức Sinh 胡德生
Thượng Hải văn hoá xuất bản xã, 1997.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét