武陵春
风住尘香花已尽, 日晚倦梳头. 物是人非 1 事事休, 欲语泪先流.
闻说双溪 2 春尚好, 也拟泛轻舟. 只恐双溪舴艋舟 3, 载不动许多愁 4.
(李清照)
VŨ LĂNG XUÂN
Phong trú trần hương hoa dĩ tận, nhật vãn quyện sơ đầu. Vật thị nhân phi 1 sự sự hưu, dục ngữ lệ tiên lưu.
Văn thuyết Song Khê 2 xuân thượng hảo, dã nghĩ phiếm khinh châu. Chỉ khủng Song Khê trách mãnh châu 3, tái bất động hứa đa sầu 4 .
(Lí Thanh Chiếu)
Đề giải
Trong sách Mai uyển 梅苑 thời Nam Tống gọi là Vũ Lâm xuân 武林春
Chú thích
1- VẬT THỊ NHÂN PHI 物是人非: Trong Dữ Ngô Chất thư 与吴质书 của Nguỵ Văn Đế Tào Phi 曹丕 có câu:
Vật thị nhân phi, ngã lao như hà
物是人非, 我劳如何
(Vật thì còn đó, người thì ở đâu, ta nhọc công có ích gì)
2- SONG KHÊ 双溪: khe nước ở phía nam thành Kim Hoa 金华 Triết Giang 浙江, do 2 nhánh khe hợp lại mà thành. Lí Thanh Chiếu lúc bấy giờ trú tại nhà một người họ Từ 徐 ở Kim Hoa.
3- TRÁCH MÃNH CHÂU 舴艋舟: thuyền nhỏ, hình dạng tựa con châu chấu. Trong bài Ngư phủ từ 渔父词 của Trương Chí Hoà 张志和 đời Đường có câu:
Trách mãnh vi châu lực kỉ đa
Giang đầu vũ tuyết bạn tương hoà
舴艋为舟力几多
江头雨雪伴相和
Con thuyền trách mãnh sức được bao nhiêu
Mà nơi đầu sông làm bạn cùng mưa tuyết
4- TÁI BẤT ĐỘNG KỈ ĐA SẦU 载不动几多愁: Đây là câu vô cùng hay, nhưng không phải Lí Thanh Chiếu viết ra đầu tiên. Tiền Chung Thư 钱钟书 trong Tống thi tuyển chú 宋诗选注 khi bàn về bài Liễu chi từ 柳枝词 có nói:
Bài thơ này rất giống bài Cổ biệt li 古别离 của Vi Trang 韦庄 … Nhưng cách viết ở câu thứ 3 và thứ 4:
Bất quản yên ba dữ phong vũ,
Tái tương li hận quá Giang Nam
不管烟波与风雨
载相离恨过江南
(Mặc kệ khói sóng cùng mưa gió
Thuyền chở nỗi hận li biệt đến Giang Nam )
So với nửa bài sau của Vi Trang sâu sắc hơn nhiều, về sau nhiều tác gia bắt chước theo đó.
Trừ bài từ này của Lí Thanh Chiếu ra, còn có:
Tô thức 苏轼với bài Ngu mĩ nhân 虞美人:
Vô tình Biện thuỷ tự đông lưu
Chỉ tái nhất thuyền li hận hướng Tây Châu
无情汴水自东流
只载一船离恨向西州
Vô tình sông Biện chảy về đông
Con thuyền chỉ chở nỗi hận li biệt đến Tây châu
Trần Dữ Nghĩa 陈与义 với bài Ngu mĩ nhân 虞美人:
Minh triêu tửu tỉnh đại giang lưu
Mãn tái nhất thuyền li hận hướng Hành Châu
明朝酒醒大江流
满载一船离恨向衡州
Sớm mai tỉnh rượu theo giòng sông cuộn chảy
Chở đầy thuyền nỗi hận li biệt đến Hành Châu
Tân Khí Tật 辛弃疾 với bài Thuỷ điệu ca đầu 水调歌头:
Minh dạ biên châu khứ
Hoà nguyệt tái li sầu
明夜扁舟去
和月载离愁
Đêm trăng sáng chiếc thuyền con ra đi
Cùng với trăng chở nỗi sầu li biệt
Trương Khả Cửu 张可久 với bài Thiềm cung khúc 蟾宫曲:
Hoạ thuyền nhi tái bất khởi li sầu
Nhân đáo Giang Lăng, hận mãn Đông Châu
画船儿载不起离愁
人到江陵, 恨满东州
Thuyền hoa chở không nổi mối sầu li biệt
Người đến Giang Lăng, nỗi hận tràn khắp Đông Châu
Quán Vân Thạch 贯云石 với bài Thanh giang dẫn 清江引:
Giang thanh quyển mộ đào
Thụ ảnh lưu tàn chiếu
Lan Châu bả sầu đô tái liễu
江清卷暮涛
树影留残照
兰舟把愁都载了
Tiếng sông cuốn theo sóng chiều
Bóng cây lưu tàn ảnh
Thuyền lan chở đầy nỗi sầu.
Dịch nghĩa
VŨ LĂNG XUÂN
Gió ngừng thổi, muôn hoa rụng hết, chỉ còn lại mùi hương.
Ngày đã muộn biếng soi gương chải tóc
Vật vẫn như xưa riêng người đã đổi thay, mọi việc đã xong
Muốn nói đôi lời nhưng nước mắt đà rơi trước
Nghe nói ở Song Khê sắc xuân vẫn còn tươi đẹp
Cũng muốn thả thuyền rong chơi
Chỉ sợ thuyền ở Song Khê nhỏ hẹp
Chở không nỗi những cơn sầu.
Dịch theo điệu từ
VŨ LĂNG XUÂN
Gió ngớt hương bay hoa rụng hết
Ngày muộn biếng gương soi
Vật đó người đâu, mọi việc thôi
Muốn nói, lệ đà rơi
Nghe nói Song Khê xuân vẫn đẹp
Cũng muốn thả thuyền chơi
Chỉ sợ Song Khê thuyền nhỏ hẹp
Chở chẳng nỗi những cơn sầu
Phân tích:
Bài Vũ Lăng Xuân được làm vào năm Thiệu Hưng 绍兴 thứ 4 (năm 1134), lúc bấy giờ quân Kim đang xâm phạm phương nam, Tống Cao Tông thân chinh. Để tránh loạn, Lí Thanh Chiếu lánh mình nơi nhà một người bạn họ Trần ở Kim Hoa 金华, Triết Giang 折江. Năm đó Lí Thanh Chiếu đã từ một thiếu nữ tài hoa sống một cuộc đời dư dả trở thành một li phụ tóc sương. Bà đã trải qua vụ đảng tranh bị liên luỵ, binh hoả loạn li, tha phương lưu lạc, lại thêm việc tái giá đầy sóng gió … Những cổ vật mà hai vợ chồng góp nhặt được trước đây đã thất tán gần hết, vợ chồng đẹp đôi lại gặp phải biến cố tình cảm. Khi đến Kim Hoa lánh nạn, chuyện cũ vẫn chưa xoá được, sinh mệnh của từ nhân chỉ có một việc đó là
một mình đi hết cuộc đời còn lại. Với cảnh tượng thê lương như thế, mỗi một sự vật, sự việc đều có thể dẫn đến nỗi sầu vô hạn. Không biết việc gì lại động đến nỗi đau của từ nhân, vì thế đã làm ra bài này.
Phong trú trần hương hoa dĩ tận, sau trận cuồng phong bạo vũ, trăm hoa rơi rụng, “đã lác đác hoá thành bùn đất, chỉ có mùi hương vẫn như cũ”. Đây là lấy cảnh gởi gắm tình thê lương, từ nhân sau khi trải qua những trận gió mưa, không còn hi vọng, lòng đã trở nên tro nguội, ngay cả tóc cũng biếng chải. Vật thị nhân phi đều đã quá vãng, hiện chỉ một mình suy ngẫm, chưa mở miệng mà nước mắt đã tuôn rơi.
Tự mình cũng chẳng muốn phải khổ sầu như thế, chỉ là không ngăn được mà thôi, tìm cách giải khuây. Nghe nói sắc xuân ở Song Khê “vẫn còn tươi đẹp”, từ nhân muốn thả thuyền rong chơi một chuyến để đuổi hết nỗi sầu. Nhưng chưa gì từ nhân lại không ngăn được nỗi hoài nghi, một lần rong chơi làm sao có thể rũ hết những cơn sầu?
Chỉ khủng Song Khê trách mãnh châu,
Tái bất động hứa đa sầu
Bài từ thiên cổ, lòng của từ nhân càng khổ.
CHÚ THÍCH CỦA NGƯỜI DỊCH
LÍ THANH CHIẾU 李清照 (1084 – 1155?): hiệu Dị An cư sĩ 易安居士, người Chương Khâu 章丘 Tế Nam 济南 (nay thuộc Sơn Đông 山东). Sống vào khoảng cuối thời Bắc Tống, lúc trẻ đã nổi danh, được gọi là “tài nữ”. Phụ thân Lí Cách Phi 李格非 là một học giả và là tản văn gia nổi tiếng. Năm 18 tuổi bà được gã cho Triệu Minh Thành 赵明诚. Phu thê xướng hoạ, cùng ra sức thu thập và khảo đính kim thạch, thư hoạ. Sau sự biến Tĩnh Khang 靖康, hai vợ chồng chạy đến Giang Nam tránh loạn, đại bộ phận văn vật bị thất tán. Triệu Minh Thành bị bệnh mất vào năm Kiến Viêm 建炎 thứ 3 đời Cao Tông (năm 1129), Lí Thanh Chiếu phiêu bạt đến Hàng Châu 杭州, Việt Châu 越州, chỉnh lí và hoàn thành tác phẩm Kim thạch lục 金石录 của Triệu Minh Thành để lại. Về già bà về Lâm An 临安, sống cô đơn buồn khổ những ngày còn lại.
Lí Thanh Chiếu là đại gia từ Tống, đại biểu kiệt xuất của phái từ Uyển ước 婉约. Từ của bà được chia làm 2 thời kì lấy ranh giới từ khi bà xuống phương nam. Thời kì đầu đa phần viết về những nỗi buồn li biệt chốn phòng khuê, trong sáng diễm lệ; thời kì sau cảm thán thân phận, hoài niệm cố quốc, bi ai thê thiết. Từ của bà khéo miêu tả, giỏi dùng khẩu ngữ, có thể luyện chữ, luyện câu, luyện ý, luyện cách, hình thành “Dị An thể” 易安体. Tác phẩm của bà đa phần bị thất lạc, người đời sau sưu tập lại, có Lí Thanh Chiếu tập 李清照集, Sấu Ngọc từ 漱玉词 được hơn 40 bài.
(Nguồn Tống từ tam bách thủ 宋词三百首, Thượng Cương Thôn Dân 上彊村民 biên soạn, Lưu Văn Lan 刘文兰 chú dịch. Sùng văn thư cục, 2003, trang 363)
Huỳnh Chương Hưng
Quy Nhơn 16/9/2012
Dịch từ nguyên tác Trung văn
VŨ LĂNG XUÂN
武陵春
Trong quyển
LÍ THANH CHIẾU TỪ THƯỞNG ĐỘC
李清照词赏读
Biên soạn: Từ Kiến Uỷ 徐建委, Lưu Tranh 刘峥
Tuyến trang thư cục, 2007.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét