SỞ TỪ
“Sở từ” 楚辞 là một thể thơ mới do quan Đại phu nước Sở là Khuất Nguyên 屈原 khai sáng, tên gọi của nó xuất hiện vào thời Tây Hán. Người thời Hán thường gọi “Sở từ” là “phú” 赋, kì thực bất luận là từ thể thức hoặc từ tính chất mà nói, cả hai đều không giống nhau.
Sở từ là sản vật của văn hoá Sở, sự sản sinh Sở từ, đầu tiên nó có mối quan hệ trực tiếp với Sở thanh, Sở ca, thứ đến, nó có quan hệ mật thiết với “vu ca” 巫歌 của dân gian nước Sở. Cửu ca 九歌 mà Khuất Nguyên sáng tác là trên cơ sở nhạc ca tế thần dân gian có sự gia công mà thành. Thêm vào đó, trong Sở từ đã miêu tả nhiều phong tục sản vật của đất Sở, sử dụng nhiều phương ngôn đất Sở .
Ngoài ra, sự hỗ tương thâm nhập của văn hoá Nam Bắc, văn hoá và chế độ tiên tiến của trung nguyên cũng đã dần được văn hoá Sở tiếp nhận. Phong khí tường thuật hoa lệ của các Tung hoành gia thời Chiến quốc cũng có ảnh hưởng không nhỏ đối với Sở từ.
Từ thể thức mà nói, trên thực tế Sở từ có 2 loại:
- Một loại giống Thi kinh 诗经nhưng có sự cải tạo, như Quất tụng 橘颂, Thiên vấn 天问, cơ bản là thể “tứ ngôn”
- Một loại khác là “tao thể” 骚体 lấy Li tao 离骚, Cửu ca 九歌 làm đại biểu, đây là dạng thức điển hình của Sở từ.
Thể Sở từ điển hình nhìn từ thi phong có sự phô bày khoa trương, sự tưởng tượng phong phú. Tác phẩm của Khuất Nguyên tràn đầy sự tưởng tượng kì ảo, bộc lộ lớp lớp tình cảm chân thành (như Li tao 离骚), miêu tả phô trương sự vật (như Chiêu hồn 招魂). Còn tác phẩm của Tống Ngọc 宋玉 đã tiến thêm một bước về phương diện tự sự miêu tả.
Từ hình thức mà nói, Sở từ dài hơn so với Thi kinh, mô thức câu cũng lấy 4 chữ làm chính, cả bài biến đổi dài ngắn không câu thúc, điều này đã khiến cho sự trữ tình đạt ý càng thêm sâu sắc lâm li, triển khai được dung lượng biểu hiện.
Từ ngôn ngữ mà nói, Sở từ đa phần dùng Sở ngữ, Sở thanh; từ ngữ phương ngôn đất Sở xuất hiện với số lượng lớn. Ngoài ra, chữ “hề” 兮, chữ “ta” 些 làm hư từ thán ngữ cũng được dùng rất nhiều, trở thành tiêu chí rõ nét của Sở từ.
Khuất Nguyên 屈原 tên là Bình 平, quý tộc nước Sở, sống vào thời đại chư hầu đấu tranh kịch liệt nhất cuối thời Chiến quốc. Khuất Nguyên tiếp thụ sự giáo dục văn hoá tốt đẹp, có lí tưởng chính trị cao xa và tinh thần phấn đấu hiến thân. Nhưng do bởi quân vương hôn dung và bị gian thần hãm hại, hai lần bị biếm, cuối cùng sau một thời gian dài bị lưu đày, ông đã nhảy xuống sông Mịch La 汨罗 tự tận.
Về tính chân nguỵ của tác phẩm Khuất Nguyên, từ đời Hán đã có nhiều tranh luận. Cách nhìn tương đối nhất trí của hiện nay là, có thể xác định có 23 thiên của Khuất Nguyên : Li tao 离骚 Thiên vấn 天问 Cửu chương 九章 là do Khuất Nguyên sáng tác, Cửu ca 九歌 là tác phẩm mà Khuất Nguyên đã căn cứ vào ca khúc tế thần dân gian gia công nhuận sắc mà thành. Thiên Chiêu hồn 招魂 cũng thuộc về Khuất Nguyên. Còn Viễn du 远游, Bốc cư 卜居, Ngư phủ 渔父, đa số học giả cho là do người đời sau làm ra, Đại chiêu 大招 là tác phẩm mô phỏng Chiêu hồn 招魂, đều không phải là tác phẩm của Khuất Nguyên.
Li tao 离骚 là thơ trữ tình trường thiên Khuất Nguyên tự thuật lại cuộc đời mình. Nhân cách cao khiết, lí tưởng chính trị tốt đẹp, tình cảm yêu nước và tinh thần phê phán kẻ thù , tinh thần truy cầu dù chết cũng không hối hận của Khuất Nguyên đã dung hợp trong thơ, cấu thành một bộ thi thiên ái quốc chủ nghĩa vĩ đại.
Sau Khuất Nguyên, nước Sở có Tống Ngọc 宋玉, Đường Lặc 唐勒, Cảnh Sai 景差 đều nổi tiếng về từ phú. Hiện tại chỉ có tác phẩm của Tống Ngọc là được lưu truyền. Trong các sử sách, tác phẩm của Tống Ngọc có hơn 10 thiên, nhưng hiện tại được công nhận là chân tác chỉ có thiên Cửu biện 九辩.
Tiên Tần là thời kì sáng lập, manh nha văn hoá Trung Quốc, tinh thần văn hoá của thời kì này có ảnh hưởng sâu sắc đối với hậu thế. Văn học Tiên Tần được xem là một bộ phận trọng yếu của văn hoá Tiên Tần cũng trở thành mẫu mực được các đời sau tôn sùng.
Huỳnh Chương Hưng
Quy Nhơn 16/10/2013
Nguyên tác Trung văn
SỞ TỪ
楚辞
Trong quyển
XUÂN THU CHIẾN QUỐC VĂN HOÁ ĐẠI QUAN
春秋战国文化大观
Chủ biên: Lí Thiếu Lâm 李少林
Nội Mông Cổ nhân dân xuất bản xã, 2006.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét