PHỤC SỨC CỦA NGƯỜI CHU

Chất liệu may y phục có hàng tơ và hàng gai. Hàng tơ đại để chỉ có giới quý tộc mặc, dân thường chỉ mặc hàng gai. Do bởi vải (bố 布) do cây gai dệt thành, cho nên “bố y” 布衣 trở thành từ dùng để chỉ dân thường. Loại y phục thô và xấu nhất gọi là “hạt” 褐, bện thành từ lông thô, cho nên những người nghèo khổ bị gọi là “hạt phu” 褐夫 chính là từ lí do này.
Thời Tây Chu, cổ áo có loại “giao lãnh” 交领, cũng có loại “phương lãnh” 方领, đều cài về bên phải. Phía trước của “thường” có “phất” 巿, cũng có “phúc” 幅. Nhìn chung “thường” có 12 phúc, trước sau mỗi phía 6 phúc.
Ngoài phục sức ra, còn có mũ, thời cổ gọi là “quan” 冠. Chỉ có quý tộc mới có quan, dân thường thì vấn khăn. Thuyết cũ cho rằng con trai đến 20 tuổi sẽ cử hành “quán lễ” 冠礼. Quán lễ sẽ do người cha cử hành tại tông miếu, và một vị khách sẽ đội cho mũ. Quan (mũ) chia làm 3 loại, một loại là “tri bố quan” 缁布冠, một loại là “bì biền” 皮弁, một loại nữa là “tước biền” 爵弁. Đầu tiên đội “tri bố quan”, sau đó đội “bì biền”, cuối cùng đội “tước biền”. Tri bố quan được làm từ cây gai, bì biền được làm từ da hươu, tước biền là loại mũ có đỉnh bằng, với màu đỏ sậm.
Với người xưa, loại mang ở chân mang gọi là “lí” 履, có “ma lí” 麻履, “cát lí” 葛履, “bì lí” 皮履. Ma lí là loại được bện bằng cây gai; bì lí được làm từ da động vật. Lí mang bên ngoài, mang bên trong là “vạt” 韈, Vạt cũng được làm từ da, sau này mới có loại vạt được làm từ cây gai, tơ được viết là袜 (vạt). Dân thường khi làm ruộng đều để chân trần.
Huỳnh Chương Hưng
Quy Nhơn 02/10/2013
Nguyên tác Trung văn
周人的服饰
Trong quyển
ĐỒ VĂN TRUNG QUỐC THÔNG SỬ
图文中国通史
(tập Sử tiền sử - Chiến quốc)
Chủ biên: Triệu Hướng Tiêu 赵向标
Tân Cương nhân dân xuất bản xã, 2002.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét