TÔNG PHÁP VÀ LỄ TRỊ
Vào thời Tam đại Hạ, Thương, Chu, giai cấp thống trị đã kiến lập các loại chế độ nhà nước như quan chế, hình luật, thuế chế, binh chế …, đặt cơ sở cho văn hoá quốc gia. Trong khoảng thời Tam đại, sự kiện tương đối đột xuất là tông pháp và “lễ trị”.
Gọi là “tông pháp” 宗法, đó là nguyên tắc của mối quan hệ huyết thống trong xã hội cổ đại Trung Quốc (1). Trong Lễ kí – Đại truyện 礼记 - 大传 có ghi:
Lễ, bất vương bất Đế. Vương giả Đế kì tổ chi sở xuất, dĩ kì tổ phối chi. Chư hầu cập kì thái tổ. Đại phu, sĩ hữu đại sự, tỉnh vu kì quân, can Hợp cập kì cao tổ ….. Thượng trị tổ Nỉ, tôn tôn dã. Hạ trị tử tôn, thân thân dã. Bàng trị côn đệ, hợp tộc dĩ thực. Tự dĩ chiêu mục, biệt chi lễ nghĩa, nhân đạo kiệt hĩ.
礼, 不王不禘. 王者禘其祖之所出, 以其祖配之. 诸侯及其大祖. 大夫, 士有大事, 省于其君, 干祫及其高祖 ….. 上治祖祢, 尊尊也. 下治子孙, 亲亲也. 旁治昆弟, 合族以食. 序以昭穆, 别之礼义, 人道竭矣.
(Lễ chế quy định, không phải là thiên tử thì không được cử hành tế Đế. Đế vương tế Đế là vị Thiên thần đã sinh ra thuỷ tổ của mình, lập thần chủ của thuỷ tổ phối hưởng. Chư hầu tế tổ tiên, đại phu và sĩ nếu có đại sự đại công, được quốc quân xem xét biết rõ thì có thể thỉnh cầu tế Hợp, có thể tế đến cao tổ … Trên đến tiên tổ tiên phụ, đó là để tôn sùng chính thống chí tôn. Dưới đến con cháu, đó là để thân ái cốt nhục chí thân, bên cạnh là anh em, lấy việc tụ họp ăn uống để liên kết tình cảm của toàn tộc. Lập tả chiêu hữu mục để sắp xếp thứ tự, dùng lễ nghi để khu biệt lớn nhỏ, nhân đạo luân thường được thể hiện không sót)
Với tông pháp đời Chu, nguyên tắc cơ bản và nội dung của nó là mỗi quý tộc đều phải quy tông nhận tổ, phân ra có đại tông và tiểu tông; còn việc phân đại tông và tiểu tông, đầu tiên phải xác lập chế độ kế thừa trưởng ấu. Nguyên tắc cơ bản của tông pháp chính là chế độ kế thừa trưởng ấu. Vương vị đời Chu do đích trưởng tử chính tông của quý tộc vương thất kế thừa. Anh em của đích trưởng tử sẽ phân thành một nhà khác, cho nên gọi là “biệt tử” 别子. Giai tầng sĩ đại phu đời Chu nói chung là biệt tử của quốc vương. Đương nhiên, sau khi biệt tử lập thành một nhà sẽ lấy đích trưởng tử của mình kế thừa trưởng vị của gia tộc và trở thành đại tông, người đó chính là thuỷ tổ của tông này, gọi là “biệt tử vi tổ” 别子为祖. Vương vị đời Chu thực hành chế độ đích trưởng tử kế thừa, đối với việc xác lập tông pháp và ảnh hưởng xã hội có ý nghĩa lịch sử sâu xa. Từ vua Vũ 禹 nhà Hạ truyền vương vị cho con là Khải 启, khai sáng vương quyền gia thiên hạ trở đi, vương vị đời Thương bắt đầu do đích trưởng tử kế thừa, đến đời Chu hoàn toàn hình thành chế độ vương vị của mỗi vương triều do đích trưởng tử kế thừa trong lịch sử Trung Quốc, từ đó cũng hình thành cái gọi là quan niệm “chính thống” của vương quyền. Chế độ đích trưởng tử kế thừa vương vị tuy có thể giảm thiểu sự đấu tranh tranh giành ngôi vị ở nội bộ vương thất, nhưng do bởi đích trưởng có thể là người hôn dung vô năng, dẫn đến vương quyền suy yếu, để ngăn ngừa tệ bệnh này, đời sau lại xuất chiêu “lập thái tử”.
Lễ, lúc ban đầu là một loại lễ nghi, là một loại chuẩn tắc hành vi mà con người xác lập và điều chỉnh mối quan hệ giữa người với người. Truy tìm khởi nguyên của lễ, sớm nhất là những nghi thức tế tự của xã hội nguyên thuỷ đối với tổ tiên, trời đất, quỷ thần, hành vi cung kính ở những nghi thức này mọi người gọi là “lễ”. Hành vi cung kính đối với tổ tiên và quỷ thần trong xã hội nguyên thuỷ được diễn dịch thành sự tôn kính đối với thủ lĩnh, trưởng bối. Trải qua sự phát triển ở thời kì nhà Hạ nhà Thương đến thời Tây Chu, đã hình thành nên “lễ” lấy “thân thân, tôn tôn” làm nguyên tắc cơ bản. Nội dung của Chu lễ rất rộng (2), đại để có thể phân thành “cát lễ” 吉礼 (chỉ điển lễ tế tự”), “hung lễ” 凶礼 (chỉ nghi lễ tang táng), “quân lễ” 军礼 (chỉ các điển lễ liên quan đến quân sự), “tân lễ” 宾礼 (các điển lễ như triều cận, hội minh), “gia lễ” 嘉礼 (bao gồm hôn lễ, quán lễ, hưởng yến, lập trừ cùng các lễ về hỉ sự). Tự nội dung của lễ có thể biết nó liên quan đến các mặt trong đời sống xã hội. Nhưng, lễ đời Chu lại không phải là lễ của cả một quốc gia và dân chúng, mà là chỉ giới hạn ở quý tộc, đồng thời là lễ có đẳng cấp. Điều mà gọi là “lễ bất há thứ nhân” 礼不下庶人, “hình bất thướng đại phu” 刑不上大夫, đã biểu minh một cách rõ ràng rằng, đối với “thứ nhân” (bách tính) thì không nói đến “lễ”, khi họ phạm tội sẽ bị trừng phạt; còn quý tộc có thể hưởng sự đãi ngộ của lễ, khi phạm tội có thể không bị trừng phạt. Do bởi sự bất bình đẳng này có thể thấy, “lễ” đời Chu trên thực tế là một loại thủ đoạn chính trị tiến hành cùng luật pháp, cho nên gọi “lễ trị” 礼治là thoả đáng nhất. Sự khác nhau giữa “lễ trị” và “pháp trị” là, “pháp trị” (như hình luật) mang tính chất cưỡng chế bạo lực, là thủ đoạn cứng rắn của kẻ thống trị; “lễ trị” mang tính chất giáo hoá văn minh, là thủ đoạn mềm dẻo của kẻ thống trị. Cả hai nương tựa vào nhau, trở thành thủ đoạn hữu hiệu bảo vệ chính quyền chủ nô đời Chu . Cho nên trải qua sự đề xướng của Nho gia, lễ trị lại trở thành tiêu chuẩn thống trị phong kiến trường kì.
Trong lễ nhà Chu, lễ thiên tế địa, tế tự xã tắc tông miếu cùng với tư tưởng định quân thần, biệt nam nữ, lại thêm các hạng mục lễ nghi về cát lễ, hung lễ, quân lễ, hôn lễ, quán lễ trong Chu lễ 周礼, Lễ kí 礼记, Nghi lễ 仪礼 đã có ảnh hưởng rất lớn đối với văn hoá lễ nghi của đời sau. Tế lễ, điển lễ, hôn lễ, tang lễ của đời sau mặc dù hình thức lễ nghi có chỗ khác nhau, nhưng nguồn gốc của chúng đều có liên quan đến tam lễ. Nhất là “ngũ phục” 五服 trong tang lễ, dường như bản chất không thay đổi.
Sau khi nhà Chu mất, tông pháp nghiêm nhặt không còn tồn tại, nhưng quan niệm tư tưởng của tông pháp lại có ảnh hưởng sâu xa đối với đời sau. Không nói đến đế vương các đời từ Tần Hán trở về sau cơ hồ đều thực hành chế độ đích trưởng kế thừa vương vị, quý tộc và gia tộc bách tính cũng đều do đích trưởng kế thừa, đời sau rất chú trọng minh chứng gia phả thế hệ, như khoảng từ thời Hán đến thời Đường, thỉnh thoảng sùng thượng phổ hệ môn phiệt. Lí học gia Trương Tải 张载 đời Tống đề xướng khôi phục tông pháp, thời Nam Tống trở về sau, gia phả lại hưng vượng trở lại khiến nó trở thành sợi dây ràng buộc thế hệ gia tộc, nhưng bỏ tông tử và lễ khu biệt đại tông tiểu tông, hơn nữa không giới hạn ở quý tộc, nói chung gia tộc đều có thể tế tổ, lấy sức mạnh tập thể của gia tộc để bảo vệ quyền lợi và địa vị của gia tộc mình, hình thành “thế lực tông pháp” có giới hạn trong xã hội. Từ quốc gia phong kiến mà nói, đây cũng là một sức mạnh tập quán để duy trì trật tự xã hội phong kiến.
Chú của người dịch
(3)- Ngũ phục五服: là chế độ đẳng cấp trong tang phục bắt nguồn từ Trung Quốc. Xã hội cổ đại Trung Quốc là xã hội do gia tộc phụ hệ tổ thành, lấy Phụ tông làm trọng. Phạm vi thân thuộc bao gồm đàn ông từ Cao tổ trở xuống cùng với người phối ngẫu, tức từ Cao tổ xuống đến Huyền tôn tổng cộng là 9 đời, thường gọi là Bản tông cửu tộc 本宗九族. Chế độ tang phục dựa vào thời gian chịu tang dài ngắn khác nhau được chia làm 5 loại gọi là “ngũ phục”:
Trảm thôi 斩衰: thời gian chịu tang là 3 năm. Thực tế tròn 2 năm hoặc 25 tháng, chống gậy.
Tư thôi齐衰: Tư thôi được chia làm 4 loại:
Tư thôi tam niên 齐衰三年: thời gian chịu tang là 3 năm, chống gậy.
Tư thôi trượng kì 齐衰杖期: thời gian chịu tang là 1 năm, chống gậy.
Tư thôi bất trượng kì齐衰不杖期: thời gian chịu tang là 1 năm không chống gậy.
Tư thôi tam nguyệt 齐衰三月: thời gian chịu tang là 3 tháng, không chống gậy.
Đại công 大功: còn được viết là 大红, thời gian chịu tang là 9 tháng, không chống gậy.
Tiểu công 小功: còn được viết là 小红, thời gian chịu tang là 5 tháng, không chống gậy.
Ti ma 缌麻: thời gian chịu tang là 3 tháng, không chống gậy.
Lược dịch từ nguồn:
http://zh.wikipedia.org/wiki/%E4%BA%94%E6%9C%8D http://www.china5000.org.cn/chinese/zhongguominsu/200709/t20070914_43977.htm
Huỳnh Chương Hưng
Quy Nhơn 14/8/2014
Nguyên tác Trung văn
TÔNG PHÁP DỮ LỄ TRỊ
宗法与礼治
Trong quyển
VĨNH BẤT THẤT LẠC ĐÍCH VĂN MINH
永不失落的文明
Tác giả: Lí Thiệu Liên 李绍连
Thượng Hải, Học Lâm xuất bản xã, 1999.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét